Trong lịch sử phương pháp giảng dạy ngoại ngữ (PPGDNN) giảng dạy tiếng luôn gắn liền với các trào lưu trong ngôn ngữ học, tâm lí học và sư phạm học. Theo Celce-Murcia (1991) thì PPGDNN luôn dựa vào ba hòn đá tảng: bản chất ngôn ngữ (giảng dạy tiếng và ngôn ngữ học), bản chất người học (giảng dạy tiếng và tâm lí học), và mục đích giảng dạy và học tập (mục đích của cá nhân và nhu cầu xã hội). Phương pháp giảng dạy là phạm trù cơ bản trong giáo học pháp, thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Trong khoa học sư phạm thì nó là phương thức nhận thức, là cách thức nghiên cứu và giải quyết tình huống. Trong PPGDNN nó có nghĩa hẹp hơn: là mô hình tổng hợp hoá quá trình dạy học dựa trên một trong các hướng tiếp cận cụ thể, điển hình cho các phương hướng cụ thể, có thể là việc sử dụng tài liệu giảng dạy, lựa chọn thủ pháp giảng dạy, phương thức tương tác giữa giáo viên và học viên. Dựa trên khái niệm của Anthony (1963) Richards và Rodgers (1986) nhìn nhận phương pháp như một cái ô bao trùm ba cấp độ: lí thuyết (approach - lối tiếp cận), xử lí (design - thiết kế) và ứng dụng thực tế (procedure - qui trình). Các tác giả trên đã giúp chúng ta định hình được cấu trúc của phương pháp bao gồm vai trò giáo viên và học viên, loại hình chương trình, đặc trưng tổ chức quá trình đào tạo và các ngữ liệu giảng dạy. Trong quá trình phát triển, hơn một thế kỉ qua, ngành PPGDNN được biết đến các phương pháp phổ biến như: Phương pháp dịch-ngữ pháp (Grammar-Translation Method), Phương pháp trực tiếp (Direct Method), Phương pháp nghe khẩu ngữ (Audiolingualism, audiolingual method, mim-mem method), Phương pháp nghe nhìn, còn gọi là phương pháp cấu trúc toàn cầu (Audiovisual Method / Structural-Global Method), Phương pháp giảng dạy tiếng theo tình huống, còn gọi là lối tiếp cận bằng lời (Situational Language Teaching – SLT/ The Oral Approach), Phương pháp/ lối tiếp cận tự nhiên (Natural Method / Natural Approach), và Phương pháp giao tiếp, còn gọi là giảng dạy tiếng giao tiếp (Communicative Method/ Communicative Language Teaching (CLT). Cũng cần bổ sung rằng, về thuật ngữ, các nhà phương pháp học có những cách gọi khác nhau. Chẳng hạn, Celce-Murcia (1991) thì đồng nhất gọi chúng là Lối tiếp cận (LTC), ví dụ, LTC dịch-ngữ pháp, LTC trực tiếp, LTC đọc, LTC nghe ngôn ngữ, LTC Tình huống, LTC nhận thức, LTC hiểu và LTC ảnh hưởng nhân văn trong khi đó Richards và Rodgers (1986) lại dùng cả hai thuật ngữ là phương pháp (Phương pháp dịch ngữ pháp) và lối tiếp cận (LTC giao tiếp,LTC tự nhiên).1. Phương pháp dịch ngữ pháp. Phương pháp này hiểu ngôn ngữ như những hệ thống. Lối tiếp cận của phương pháp này là lối tiếp cận nhận thức trong giảng dạy, trong thời kì đầu (thế kỉ 19), nó được sử dụng rộng rãi ở châu Âu để dạy các ngôn ngữ La-tinh và Hi Lạp, sau này là các thứ tiếng Đức, Pháp, Anh. Mục đích giảng dạy của phương pháp này là để đọc các tác phẩm văn học. Ngoại ngữ được nhìn nhận như một bộ môn giáo dục toàn diện với vai trò chủ đạo là phát triển trí tuệ và tư duy lô gic của người học. Phương pháp này chú trọng vào văn viết. Các hình thức giao tiếp bằng lời thường chỉ dùng với mục đích công cụ giảng dạy. Về ngôn ngữ: phương pháp này tập trung vào việc phân tích câu trong văn bản. Thông qua văn bản đó, học viên có thể học thêm từ vựng và học viên luôn được khuyến khích sử dụng từ điển song ngữ, được học từ mới với nghĩa được dịch sang tiếng mẹ đẻ, các dạng bài tập dịch xuôi, ngược. Thi cử cũng lấy dịch làm trọng tâm. Ngữ pháp được học theo phương pháp diễn dịch và mang tính hệ thống, có sử dụng rộng rãi các qui tắc, đồng thời so sánh đối chiếu với tiếng mẹ đẻ. Tiếng mẹ đẻ là nền tảng trong quá trình giảng dạy. Có thể nói học ngoại ngữ bằng phương pháp này, học sinh được nghe giảng giải nhiều về ngoại ngữ, biết nhiều về ngoại ngữ đó. Ưu điểm cơ bản của phương pháp này là học viên được học các tác phẩm văn học nguyên tác, ngữ pháp được học qua tình huống cụ thể, tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ giảng dạy và là đối tượng so sánh đối chiếu của học viên. Tuy nhiên, khi học ngoại ngữ, học viên chủ yếu nghiên cứu các cấu trúc ngữ pháp và chuyên tâm vào dịch nhưng hầu như không dùng được ngoại ngữ để giao tiếp.2. Phương pháp trực tiếp Phương pháp này là một sự phản ứng tích cực của các nhà giáo dục ngôn ngữ đối với Phương pháp dịch ngữ pháp. Theo Celce-Murcia (1991) thì phương pháp này có những đặc điểm chính như hoàn toàn không sử dụng tiếng mẹ đẻ trên lớp, giáo viên thường là người bản ngữ hoặc có năng lực ngoại ngữ cao, thường sử dụng tranh ảnh hoặc hành động để giải nghĩa từ mới, bài học được tiến hành từ các cuộc hội thoại hay những mẩu chuyện vui, thường là liên quan tới những tình huống sinh hoạt hiện đại, giáo viên có thể kết hợp giảng dạy các hiện tượng văn hoá theo phương pháp qui nạp, ngữ pháp cũng được giảng giải theo phương pháp này nhưng không chuyên sâu nghiên cứu và phân tích ngữ pháp như ở phương pháp dịch ngữ pháp. Ưu điểm chính của phương pháp này là học viên có nhiều điều kiện tiếp xúc bằng ngoại ngữ. Đồng thời họ cũng có thể ứng dụng được ngôn ngữ đã học vào các giao tiếp thực tế. Tuy nhiên, người quản lí luôn gặp trở ngại về vấn đề tuyển mộ giáo viên.3.Phương pháp đọc hiểu. Xuất hiện vào những năm 1930 khi hầu hết các cơ sở đào tạo tiếng không có khả năng tuyển mộ những giáo viên đạt yêu cầu. Với phương pháp đọc hiểu, giáo viên không cần phải biết nói giỏi mà chỉ cần có kiến thức từ vựng, ngữ pháp tốt bởi phương pháp này chỉ chú trọng vào kĩ năng đọc. Từ vựng là vấn đề then chốt. Các hiện tượng ngữ pháp chỉ được đề cập nếu trợ giúp quá trình đọc hiểu.4.Phương pháp nghe nói khẩu ngữ.
Tô Hiệu – Top trường THCS ở Hải Phòng
Trải qua hơn 25 năm hoạt động, trường THCS Tô HIệu vinh dự nhận được bằng khen của UBND quận Lê Chân, UBND thành phố Hải Phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trường vinh dự nhận được Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, dược công nhận là Tập thể lao động xuất sắc trong 2 năm liền của thành phố.
Để đạt được những thành tích cao như vậy, đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên nhà trường không ngừng phát triển, đầu tư mạnh mẽ và vươn lên trong công tác quản lý, giáo dục và học tập. Trường sở hữu đội ngũ giáp viên dày dặn kinh nghiệm, chuyên môn giỏi và tâm huyết với nghề. Nhà trường tạo điều điện tốt nhất cho học sinh được học tập trong môi trường giáo dục thoải mái, phát huy được tiềm năng của mình. Chất lượng đầu vào và đầu ra của trường luôn duy trì mức độ ổn định trong suốt nhiều năm liền.
Tô Hiệu là một trong những trường THCS ở Hải Phòng có chất lượng dạy học tốt
Lý Tự Trọng luôn thuộc top các trường THCS ở Hải Phòng chất lượng cao nhất. Đâychính là trường chuyên văn đầu tiên của thành phố đã trải qua hơn nửa thập kỷ xây dựng và phát triển. Hiện nay nhà trường sở hữu cảnh quan trường học khang trang, hiện đại, môi trường học tập an toàn và thân thiện.
Hệ thống cơ sở vật chất của nhà trường bao gồm các phòng học chính, 9 phòng học chức năng mô phòng độ chân thực cao giúp học sinh học tập dễ dàng. Với môi trường văn minh, thân thiện, đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm có trình độ cao nhà trường đã tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh học tập đạt kết quả tốt nhất.
Trần Văn Ơn là 1 trong các trường THCS ở Hải Phòng có phương pháp giảng dạy tốt nhất. Với nhiều năm xây dựng và phát triển nhà trường đã khẳng định được những bươc tiến vượt bậc với những thế hệ học sinh mang lại hàng loạt thành tích nổi bật. Trong đó tủ lệ học sinh khá giỏi đạt từ 85% trở lên mỗi năm. Số lượng học sinh gưởi các cấp cũng tăng dần theo các năm học.
Nhà trường đầu tư liên tục nâng cao chất lượng giảng dạy, phát triển đội ngũ giáo viên. Số lượng giáo viên đạt chiến sỹ thi đua cấp cơ sở và thành phố ngày càng tăng. Giáo viên tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào từng bài giảng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường.
Trần Văn Ơn – Trường THCS Hải Phòng