Nhắc đến thơ ca thì không thể không kể đến đất nước Trung Quốc. Những câu thơ hay bằng tiếng Trung hàm chứa nhiều ý nghĩa giúp bạn cảm nhận được từng cung bậc cảm xúc hay những khó khăn trong cuộc sống. Cùng theo dõi bài viết và tìm hiểu kỹ nhé!
春中田园作 / Xuân Trung Điền Viên Tác
Thơ: 屋上春鸠鸣, 村边杏花白. 持斧伐远扬, 荷锄觇泉脉. 归燕识故巢, 旧人看新历. 临觞忽不御, 惆怅远行客.
Phiên âm:wūshàng chūn jiū míng,cūn biān xìng huā bái.chí fǔ fá yuǎnyáng,hè chú chān quán mài.guī yàn shì gù cháo,jiù rén kàn xīn lì.lín shāng hū bù yù,chóuchàng yuǎn xíng kè.
Dịch nghĩa:Xuân cưu kêu mái nhà Hạnh trắng vườn đơm hoa Rìu chặt cành xa vướng Cuốc khai mạch suối ra Én về hay tổ cũ Lịch mới người xem qua Rót rượu mà chưa uống Nghĩ thương người chốn xa
相思曲 (Xiāngsī qū) / Tương Tư Khúc
Tương Tư Khúc là một bài thơ diễn tả cuộc sống ẩn sĩ nhàn nhã của tác giả, ngoài ra còn phản ánh những khó khăn cuộc sống nhân dân thời gian nhà Đường.
Tác giả: Đới Thúc Luân (戴叔伦 – Dài Shū Lún), thời Đường.
高楼重重闭明月, Gāo lóu chóng chóng bì míng yuè, 肠断仙郎隔年别。 Cháng duàn xiān láng gé nián bié. 紫萧横笛寂无声, Zǐ xiāo héng dí jì wú shēng, 独向瑶窗坐愁绝。 Dú xiàng yáo chuāng zuò chóu jué. 鱼沉雁杳天涯路, Yú chén yàn yǎo tiān yá lù, 始信人间别离苦。 Shǐ xìn rén jiān bié lí kǔ. 恨满牙床翡翠衾, Hèn mǎn yá chuáng fěi cuì qīn, 怨折金钗凤凰股。 Yuàn zhé jīn chāi fèng huáng gǔ. 井深辘轳嗟绠短, Jǐng shēn lù lú jiē gěng duǎn, 衣带相思日应缓。 Yī dài xiāng sī rì yīng huǎn. 将刀斫水水复连, Jiāng dāo zhuó shuǐ shuǐ fù lián, 挥刃割情情不断。 Huī rèn gē qíng qíng bù duàn. 落红乱逐东流水, Luò hóng luàn zhú dōng liú shuǐ, 一点芳心为君死。 Yī diǎn fāng xīn wèi jūn sǐ. 妾身愿作巫山云, Qiè shēn yuàn zuò wū shān yún, 飞入仙郎梦魂里。 Fēi rù xiān láng mèng hún lǐ.
Cao lâu trùng trùng bế minh nguyệt, Trường đoạn tiên lang cách niên biệt. Tử tiêu hoành địch tịch vô thanh, Độc hướng dao song toa sầu tuyệt. Ngư trầm nhạn diểu thiên nhai lộ, Thủy tín nhân gian biệt ly khổ. Hận mãn nha sàng phí thúy khâm, Oán chiết kim thoa phụng hoàng cổ. Tỉnh thâm lộc lư ta cảnh đoản, Y đới tương tư nhật ưng hoãn. Tương đao phá thủy thủy phục liên, Huy nhẫn cát tình tình bất đoạn. Lạc hồng loạn trục đông lưu thủy, Nhất điểm phương tâm vị quân tử. Thiếp thân nguyện tác Vu Sơn vân, Phi nhập tiên lang mộng hồn lý.
Lầu cao lớp lớp che trăng sáng, Đau lòng vì suốt năm xa cách chàng. Tiêu im sáo lặng không nghe tiếng, Một mình ngồi buồn nhìn ra song cửa ngọc. Cá lặn chim bay chân trời góc biển, Biệt ly không được tin thư thật khổ. Oán đầy giường ngà chăn phí thúy, Giận bẻ gãy kim thoa phượng hoàng. Giếng sâu ròng rọc than giây ngắn, Ngày trôi chậm, xiêm y cũng nặng tương tư. Dùng dao chém nước nước liền trở lại, Cầm kéo cắt tình tình không chịu đứt. Hồng rụng tơi bời theo dòng nước chảy về đông, Một tấm tình son vì người mà tàn lụi. Thiếp nguyện làm mây núi Vu (Sơn), Bay nhập vào giấc mộng trong hồn chàng.
Mảnh trăng thanh lầu cao che khuất Lòng đau vì xa cách nhiều năm Tiếng tiêu điệu sáo lặng im Một mình buồn bã ngóng nhìn phương xa Bên chân trời chim bay cá lặn Mòn mỏi vì âm tín không về Chiếu chăn hờn oán não nề Kim thoa bẻ gãy lời thề còn đâu Giếng nước sâu mà giây thì ngắn Xiêm y buồn người chẳng điểm trang Dùng dao chém nước nước liền Kéo kia cắt đứt mối tình được không? Theo dòng nước loạn hồng trôi mãi Tấm tình em một phiến vì chàng Xin làm mây núi Vu Sơn Nhập sâu vào cõi mộng hồn người thương. (Phan Lang Dịch)
春望 (Chūn wàng) / Xuân Vọng – Đỗ Phủ
Bốn dòng đầu của bài thơ này miêu tả khung cảnh khốn khổ và đổ nát của Trường An vào mùa xuân trong sự hưng thịnh và suy tàn. Bốn dòng cuối của bài thơ viết về tình yêu của nhà thơ đối với thân nhân và quốc sự đầy nỗi buồn.
国破山河在, Guó pò shānhé zài, 城春草木深。 Chéng chūn cǎomù shēn. 感时花溅泪, Gǎn shí huā jiàn lèi, 恨别鸟惊心。 Hèn bié niǎo jīng xīn. 烽火连三月, Fēnghuǒ lián sān yuè, 家书抵万金。 Jiāshū dǐ wàn jīn. 白头搔更短, Báitóu sāo gèng duǎn, 浑欲不胜簪。 Hún yù bùshèng zān.
Quốc phá sơn hà tại, Cảm thì hoa tiễn lệ, Hận biệt điểu kinh tâm. Phong hỏa liên tam nguyệt, Gia thư để vạn kim. Bạch đầu tao cánh đoản, Hồn dục bất thắng trâm.
Nước phá tan, núi sông còn đó, Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu. Cảm thời hoa rỏ dòng châu Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng. Ba tháng khói lửa ròng không ngớt, Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn. Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun, Dường như hết thảy, e khôn búi tròn. (Trần Trọng Kim dịch)
Nước mất nhà tan còn sông núi, Xuân thành cây cỏ mọc thâm u. Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ, Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly. Khói lửa binh đao liền ba tháng, Thư nhà nhận được đáng vạn ngân. Tóc bạc như sương càng thưa thớt, E không đủ búi để cài trâm. (Trương Văn Tú (Lãng Nhai) dịch)
Thơ Trung Quốc ý nghĩa hay về cuộc sống
Những bài thơ bất hủ chủ đề cuộc sống tiếng Trung từ trước đến nay luôn được nhiều bạn trẻ yêu thích đón nhận. Hãy tham khảo ngay một số bài thơ đặc sắc bằng tiếng Hoa ngay bên dưới.
山居秋暝 (Shānjū qiū míng) / Sơn Cư Thu Minh
Sơn Cư Thu Minh là bài thơ mô tả cảnh đẹp của làng núi và những phong tục tập quán bình dị của người dân miền núi vào buổi tối sau cơn mưa đầu thu trong trẻo, mô phỏng tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên, cảnh vật, làng quê và sự mãn nguyện khi sống ẩn nơi yên bình.
Tác giả: Vương Duy (王维 – Wáng Wéi)
空山新雨后, Kōngshān xīn yǔ hòu, 天气晚来秋。 Tiānqì wǎn lái qiū. 明月松间照, Míngyuè sōng jiān zhào, 清泉石上流。 Qīngquán shí shàngliú. 竹喧归浣女, Zhú xuān guī huàn nǚ, 莲动下渔舟。 Lián dòng xià yúzhōu. 随意春芳歇, Suíyì chūnfāng xiē, 王孙自可留。 Wángsūn zì kě liú.
Không sơn tân vũ hậu, Thiên khí vãn lai thu. Minh nguyệt tùng gian chiếu, Thanh tuyền thạch thượng lưu. Trúc huyên quy hoán nữ, Liên động há ngư chu. Tùy ý xuân phương yết, Vương tôn tự khả lưu.
Ngọn núi vắng sau cơn mưa Thời tiết ban đêm đã là thu rồi Ánh trăng sáng chiếu qua rừng cây tùng Suối nước xanh chảy trên đá Nghe có tiếng trúc xào xạc mấy cô đi giặt áo về Tiếng lá sen xao động có người hạ thuyền xuống Tùy ý, hương xuân đã hết Các vương tôn muốn ở lại thì tự nhiên.
Núi vắng cơn mưa tan Chiều thu bóng khuất tàn Lá tùng trăng sáng rọi Ghềnh đá suối xanh tràn. Trúc vang hò thiếu nữ Sen động tiếng thuyền nan Tùy ý hương xuân tận Vương tôn vẫn bàn hoàn. (Nguồn: Thanh Vân Thi Tập)
山中寡妇 (Shānzhōng guǎfù) / Sơn Trung Quả Phụ (Tạm dịch: Người đàn bà góa chồng ở trong núi)
Bài thơ này phản ánh trải nghiệm bi thảm của nhân dân lao động dưới sự bóc lột, áp bức tàn khốc của giai cấp thống trị. Qua số phận bi thảm của một nhân vật điển hình như bà góa trên núi, cả bài thơ thấy được bộ mặt của xã hội bấy giờ, lời lẽ vô cùng xót xa, căm phẫn.
Tác giả: Đỗ Tuân Hạc (杜荀鶴 – Dù Xún Hè), thời Vãn Đường.
夫因兵死守蓬茅, Fū yīn bīng sǐshǒu péng máo, 麻苎衣衫鬓发焦。 Má zhù yīshān bìnfà jiāo. 桑柘废来犹纳税, Sāng zhè fèi lái yóu nàshuì, 田园荒后尚征苗。 Tiányuán huāng hòu shàng zhēng miáo. 时挑野菜和根煮, Shí tiāo yěcài hé gēn zhǔ, 旋斫生柴带叶烧。 Xuán zhuó shēng chái dài yè shāo. 任是深山更深处, Rèn shì shēnshān gēngshēn chù, 也应无计避征徭。 Yě yīng wú jì bì zhēng yáo.
Phu nhân binh tử thủ bồng mao, Ma trữ y sam mấn phát tiêu. Tang giá phế lai do nạp thuế, Điền viên hoang hậu thượng chinh miêu. Thì khiêu dã thái hòa căn chử, Toàn chước sinh sài đới diệp thiêu. Nhậm thị thâm sơn canh thâm sứ, Dã ưng vô kế tỵ chinh đao.
Chồng chết trận, một mình giữ nếp nhà tranh Áo bằng gai, đầu tóc vàng khè Việc tằm tang bỏ hoang rồi, thuế vẫn phải nộp Ruộng vườn không trồng trọt, còn bị đòi thuế thóc lúa Bữa ăn thường hái rau dại nấu cả rễ Thiếu củi, đem cành tươi vừa chặt được, để cả lá mà đốt Dù vào tận núi sâu, càng sâu hơn nữa Cũng không cách nào trốn khỏi đóng thuế đi phu.
Chết chồng, bà giữ túp tranh khô Quần áo đay gai, mái tóc thô Dâu cửi bỏ không còn nạp thuế Ruộng vườn để phế vẫn đòi tô Rau đồng lẫn rễ cho qua bữa Củi lá tươi nguyên cũng đốt lò Dù ở rừng sâu nơi quạnh vắng Phu phen thuế má cũng theo về. (Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997)
红豆词 (Hóng dòu cí) / Hồng Đậu Từ
Toàn bài thơ là những cung bậc cảm xúc buồn xen lẫn bất lực và xót xa. Những nỗi buồn mới và cũ ập đến như cơn bão dữ dội và tàn nhẫn. Hiện lên hình ảnh những đứa trẻ đáng thương, người bị bệnh tương tư không màng đến việc ăn uống.
Tác giả: Tào Tuyết Cần (曹雪芹 – Cáo Xuě Qín), thời Thanh.
滴不尽相思血泪抛红豆 Dī bù jìn xiāng sī xuè lèi pāo hóng dòu 开不完春柳春花满画楼 Kāi bù wán chūn liǔ chūn huā mǎn huà lóu 睡不稳纱窗风雨黄昏后 Shuì bù wěn shā chuāng fēng yǔ huáng hūn hòu 忘不了新愁与旧愁 Wàng bù liǎo xīn chóu yǔ jiù chóu 咽不下玉粒金波噎满喉 Yàn bù xià yù lì jīn bō yē mǎn hóu 瞧不尽镜里花容瘦 Qiáo bù jìn jìng lǐ huā róng shòu 展不开的眉头挨不明的更漏 Zhǎn bù kāi de méi tóu āi bù míng de gèng lòu 呀! Ya! 恰便似遮不住的青山隐隐 Qià biàn shì zhē bù zhù de qīng shān yǐn yǐn 流不断的绿水悠悠。 Liú bù duàn de lǜ shuǐ yōu yōu.
Trích bất tận, tương tư huyết lệ phao hồng đậu Khai bất hoàn, xuân liễu xuân hoa mãn hoạch lâu Thụy bất ổn, sa song phong vũ hoàng hôn hậu Vong bất liễu, tân sầu dữ cựu sầu Yến bất há, ngọc lạp kim ba ế mãn hầu Chiếu bất tận, lăng hoa kính lý hình dung sấu Triển bất khai để mi đầuNhai bất minh để canh lậu Nha! Kháp tiện tự: Già bất trú để thanh sơn ẩn ẩn Lưu bất đoạn để lục thủy du du.
Nhỏ không dứt, dòng huyết lệ tương tư rơi xuống như những hạt đậu đỏ Nở không trọn, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son Ngủ không yên, mưa gió bên ngoài màn song sau buổi hoàng hôn Quên chẳng được, sầu mới lẫn sầu cũ Nuốt chẳng trôi, những gạo ngọc miệng vàng nghẹn đầy cổ họng Soi chẳng hết, hình dung gầy võ trong gương hoa ấu Đầu mày giương chẳng mở Canh khuya cứ lần nữa không sáng A! Vừa đúng như: Non xanh thấp thoáng không ngăn lại được Nước biếc mênh mang trôi đi không ngừng.
Còn chảy mãi lệ tương tư thẫm đỏ Hoa, liễu buồn thôi nở chốn lầu son, Không yên giấc, mưa gió ngoài song cửa Sầu với sầu, tìm đến cuối hoàng hôn Nuốt chẳng trôi, những lời vàng tiếng ngọc Gương sáng soi khuôn mặt đã hao gầy Mày chau lại, mong canh thâu chóng hết Chao ôi! Non xanh thấp thoáng không ngăn được Nước biếc mênh mông trôi chẳng dừng. (Lạc Nhạn dịch)